Ngũ chi Minh
đạo là năm ngành đạo cùng gốc với Minh Sư gồm: Minh Sư, Minh Lý, Minh Đường,
Minh Thiện, Minh Tân. Minh Sư có nguồn gốc từ môn phái Phật Đường của Phật giáo
Thiền tông Trung Quốc; sau đời Tổ Huệ Năng (638-713), Phật giáo Thiền tông Trung
Quốc bị đình đốn, đến cuối thế kỷ thứ VIII được Đạo Nhất và Bạch Ngọc chấn hưng
với tên gọi: Phật Đường.
Môn phái Phật
Đường chỉ tồn tại một thời gian ngắn, nguyên nhân do việc đàn áp của vua Hiển Đức
nhà Chu; bị đứt đoạn tám trăm năm, đến cuối nhà Minh, vào năm Thiên Khải thứ 3
(1623) môn phái Phật Đường tiếp tục được chấn hưng nhờ công của Hoàng Đức Duy.
Tuy nhiên, nó chỉ hưng thịnh một thời gian ngắn, đến khi người Mãn Châu phía Bắc
tràn vào diệt nhà Minh lập nên nhà Thanh.
Phật Đường là một môn phái mang đậm tính tôn giáo cứu thế
theo tinh thần Tam giáo: Thờ Phật, Tu Tiên, sinh hoạt theo Nho Giáo. Giáo lý có
hai phần đốn giáo và tiệm giáo; phần đốn giáo với chủ trương phổ độ chúng sinh,
phần tiệm giáo đề cao thuyết Di Lạc, tạo niềm tin, sự trông chờ về một đấng
Minh Vương cứu thế.
Khi nhà Minh bị lật đổ, lúc bấy giờ có nhiều cuộc khởi nghĩa
nổi dậy chống lại nhà Thanh, có nhiều người đã mượn hình thức tôn giáo và nhất
là những tôn giáo có tư tưởng cứu thế để tập hợp lực lượng chống nhà Thanh, điển
hình là phong trào Thái Bình Thiên Quốc (1850-1864) mượn tư tưởng của Ki Tô
giáo; đạo Minh Sư và tổ chức Thiện Địa hội mượn tư tưởng của Phật Đường. Minh
Sư bộc lộ tư tưởng Phục Minh bài Thanh, nhưng vẫn giải thích rằng Minh Sư là
Người Thầy sáng suốt.
Minh Sư được củng cố với ý định Phục Minh Bài Thanh, triều
đình nhà Thanh đã nhiều lần đàn áp nên có một bộ phận tín đồ theo dòng người
Hoa ra hải ngoại; sau Thái Bình Thiên Quốc, Minh Sư bị dồn về Hoa Nam (trung
tâm của phong trào Phục Minh Bài Thanh).
Đạo Minh Sư trong quá trình phát triển ở Việt Nam đã hình
thành các chi nhánh khác là: Minh Đường, Minh Thiện, Minh Lý, Minh Tân, quen gọi
là Ngũ chi Minh đạo .
* Chi Minh Đường: Nhiều sách đã viết và cũng theo tác giả Đồng
Tân trong sách Lịch sử đạo Cao đài, quyển 2 cho rằng Minh Đường là tên rút gọn
của Minh Sư Phổ Tế Phật Đường; được hình thành khoảng năm 1908 với một cơ sở
duy nhất là Vĩnh Nguyên Tự tại Cần Giuộc do ông Lê Văn Lịch đứng đầu; về tôn chỉ,
pháp tu, kinh kệ, phẩm trật của Minh Đường đều tương tự Minh Sư.
* Chi Minh Thiện: Vào năm 1915, một nhóm người chịu ảnh hưởng
của Minh Sư như Trần Phát Đạt, Trần Duy Khánh, Lê Văn Hơn, Phan Văn Tý, Lê Ngọc
Lăng… thường gặp nhau và tổ chức cầu cơ ở chùa Quan Đế tên là Thanh An Tự (Thủ
Dầu Một) để xin thuốc chữa bệnh và đã lập ra một chi mới của Minh Sư lấy tên là
Minh Thiện (chi Minh Thiện chỉ có một cơ sở ở Thủ Dầu Một).
* Chi Minh Lý: Được hình thành khoảng năm 1924 trong một buổi
cầu cơ tại gia đình ông Âu Minh Chánh, người gốc Minh Hương (tên gọi người
Trung Quốc ở Việt Nam) tại Sài Gòn với sự tham gia của các ông Nguyễn Văn Miết,
Nguyễn Văn Xưng, Võ Văn Thạch, Nguyễn Văn Đề, Lê Văn Ngọc… sau một thời gian mượn
chùa Linh Sơn Tự của sư Thiện Chiếu để hành đạo, năm 1926 ông Âu Minh Chánh và
những người sáng lập đã xây dựng cơ sở riêng lấy tên gọi là Tam Tông Miếu tại
Sài Gòn (chi Minh Lý chủ trương dùng sách và cầu cơ bằng chữ quốc ngữ).
* Chi Minh Tân: Được lập ra năm 1928 do ông Lê Minh Khá, xã
trưởng Vĩnh Hội (Sài Gòn) kiêm hoạt động doanh nghiệp sau hai lần lên chùa Minh
Thiện ở Thủ Dầu Một hầu cơ xin thuốc chữa bệnh. Cơ sở của Minh Tân là Tam Giáo
Điện Minh Tân, địa chỉ 221 Bến Vân Đồn (Sài Gòn).
Mặc dù chia thành các chi nhánh nhưng tôn chỉ, sự thờ phụng,
kinh kệ, phẩm trật tu hành… của các chi Minh Đường, Minh Thiện, Minh Lý, Minh
Tân đều giống như Minh Sư. Tất cả đều thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, Diêu Trì Kim Mẫu,
Thờ Phật Thích Ca, Khổng Tử và các bậc Thánh nhân; người tu Ngũ chi Minh đạo giữ
Ngũ giới cấm theo Phật giáo, ăn chay trường, tịnh luyện và tuyệt dục.
* Minh Sư tại Việt Nam: Kim Tổ Sư là vị truyền thừa thứ 16 tại
Trung Quốc, phân công cho Trưởng lão Đông Sơ sang Việt Nam (Trưởng lão Đông Sơ tức Trương Đạo Dương (1835-1879) người Triết Giang, tu
hành tại Triều Nguyên Động, La Phù Sơn, tỉnh Quảng Đông). Ngài lập tại Cầu Kho
(Chợ Lớn) một Phật Đường gọi là Chiếu Minh Phật Đường. Sau này, Ngài trở về
Trung Quốc rồi lại sang Thái Lan truyền đạo; trên đường từ Thái Lan về Trung Quốc,
Ngài định ghé Chợ Lớn, nhưng trước tình hình ba tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm,
Ngài ghé qua Hà Tiên (thời gian đó là năm Quí Hợi -1863), Ngài lập ở Hà Tiên
ngôi Phật Đường lấy tên là Quảng Tế Phật Đường.
Sau khi lập Quảng Tế Phật Đường, số bổn đạo Minh Sư phát triển
ngày càng đông. Ngài Lão sư Ngô Cẩm Tuyền xây xong chùa Ngọc Hoàng tại số 73
Mai Thị Lựu, phường Đa Kao, quận 1, Sài Gòn vào năm 1900. Do hoàn cảnh khách
quan, chùa Ngọc Hoàng chuyển qua chùa Phật, Ngài Ngô Cẩm Tuyền lập một Phật Đường
khác vào năm 1920 tại số 17 Trần Quang Khải, quận 1, Sài Gòn lấy tên là Quang
Nam Phật Đường.
Những ngôi chùa Minh Sư đầu tiên được xây dựng chủ yếu thu
hút người Minh Hương; với tư tưởng cứu thế theo tinh thần Tam giáo và có những
hình thức sinh hoạt tôn giáo gần gũi với người Việt Nam; khẩu hiệu Phục Minh
bài Thanh đã đổi thành Phục Nam bài Pháp tại nước ta, nên trong thời gian ngắn
Minh Sư đã có ảnh hưởng tới cộng đồng người Việt ở Nam Bộ.
Đạo Minh Sư hoạt động mạnh và phát triển trên 50 Phật Đường
từ Bắc tới Nam, gồm 3 tông phái:
Phái Đức Tế: có Tổ đình Quang Nam Phật Đường, số 17 Trần
Quang Khải, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh.
Phái Phổ Tế: có Tổ đình Linh Quang Tự ở Hóc Môn, thành phố Hồ
Chí Minh.
Phái Hoằng Tế: có Tổ đình Long Hoa Phật Đường ở Cai Lậy, Tiền
Giang.
Trong quá trình hình thành và phát triển ở Việt Nam, đạo
Minh Sư hướng dẫn bổn đạo nhơn sanh tu hành, tự độ độ tha, góp phần phục vụ dân
tộc, xây dựng hòa bình an lạc cho Tổ quốc và nhiều hoạt động gắn bó với xã hội.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhiều Phật Đường của Minh Sư là cơ
sở cách mạng, làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ… tiêu biểu là Đại Lão sư Nguyễn
Giác Nguyên trụ trì chùa Nam Nhã Phật Đường được tặng Bằng khen của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng; chùa Nam Nhã Phật Đường đã được công nhận là di
tích lịch sử - văn hóa Quốc gia.
Về Giáo lý, Giáo luật, Nghi lễ:
- Về Giáo lý: Quan điểm về thế giới quan, nhân sinh quan của
Minh Sư.
Minh Sư đạo chia thế giới thành ba cõi: Thượng giới, Trung
giới và Hạ giới; Hạ giới là cõi âm phủ, Trung giới là thế giới loài người, Thượng
giới là cõi trời. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị chủ tể ngự trị ở cõi trời, nhưng
quyền năng chưởng quản hai thế giới còn lại. Còn chư Phật và các vị Bồ Tát ở
cõi Tây Phương, các vị Thần Tiên ở cõi Bồng Lai.
Giáo lý cứu thế mang tính căn bản nhất là thuyết chia thời
gian thành ba kỳ tức Tam nguyên; Thượng nguyên tức giai đoạn đầu có 12 Hội,
Trung nguyên là giai đoạn giữa có 12 Hội, Hạ nguyên là giai đoạn cuối có 12 Hội;
mỗi Hội thời gian là 10.800 năm.
Thượng nguyên tức Diêu Trì Kim Mẫu bắt đầu tạo lập trời đất;
lúc bấy giờ có 96 ức Nguyên nhân (Linh căn) xuống trần, đến nay đã trải qua đời
Thượng nguyên, Trung nguyên và sắp hết đời Hạ nguyên mà chỉ có 4 ức Nguyên nhân
trở về với mẹ. Như vậy còn 92 ức Nguyên nhân, số lượng quá nhiều, đang chìm
trong biển trầm luân, đời mạt kiếp sắp tới, Bồ Tát Di Lạc sẽ xuống trần lập Hội
Long Hoa, tế độ tất cả các Linh căn đó.
Minh Sư giải thích cách tạo lập vũ trụ theo dịch lý: Vô cực
sinh Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng
sinh Ngũ hành, Ngũ hành cấu tạo nên vạn vật.
+ Chùa Minh Sư có hai chữ Phật Đường sau tên chùa, thờ Ngọc
Hoàng Thượng Đế, Tam giáo (Đức Thích Ca Mâu Ni, Đức Khổng Tử, Đức Thái Thượng
Lão Quân) và chư Phật; trước điện thờ có vòng Vô Cực và ngọn đèn Nhiên Đăng ở
tâm vòng tròn, phía dưới là bình thủy.
+ Tôn chỉ, mục đích là tự tu, tự độ, tự tha thuần túy tu
hành, tu chơn giải thoát, nhằm hiệp nhất tinh hoa của ba nền tôn giáo lớn Nho -
Thích - Đạo để tìm lại cội gốc là Đạo (Qui nguyên Tam giáo).
- Về Giáo luật:
+ Đạo phục của Minh Sư biểu hiện qua 3 hình thức:
Lễ phục (Càn đạo) là sắc phục của tu sỹ, tín đồ khi hành lễ
bái, áo dài màu đen (tay rộng), quần trắng, chít khăn đóng hoặc mũ màu đen,
mang hài vải màu đen hoặc vớ bao chân. Nữ phái đầu đội khăn vuông (không được để
đầu trần), chân mang hài vải màu đen hoặc vớ; khi hành lễ từ bậc Sám hối trở
lên phải mặc áo rộng màu đen, quần trắng (cả nam và nữ).
Giáo phục là áo dài màu đen tay chẹt dùng cúng lễ ở hậu đường
và khi tiếp khách.
Thường phục là phục sức thông thường giản dị, vẫn giữ được sắc
thái, được áp dụng chung cho tu sỹ, tín đồ và thiện nam tín nữ.
+ Pháp tu Minh Sư rất nghiêm, tín đồ khi nhập môn vào đạo đều
ăn chay trường, tuyệt dục, tuân thủ giới luật.
+ Minh Sư đạo chia ra hai thành phần trong Giáo hội:
Thành phần giáo phẩm (xuất gia tu Phật, trường trai cấm giới)
gồm Thiên ân, Chứng ân, Dẫn ân, Bảo ân, Đảnh hàng, Bổ thiệt, Thập địa, Thái Lão
sư đã được Giáo hội tấn phong.
Thành phần đại chúng (tại gia tu Phật) gồm có thiện nam, tín
nữ trọn đời vì đạo cầu sám hối, nhất bộ, nhị bộ, tam bộ được gọi là tu sỹ, những
nam nữ cầu qui y hộ đạo, chưa được thọ giới luật của hàng tu sỹ gọi chung là
tín đồ.
+ Cấp tu trong Minh Sư đạo gồm ba bậc:
Bậc Thượng thừa: Thái Lão sư (Tổ sư), Thập Địa Lão sư (Đại
Trưởng lão), Bổ Thiệt Lão sư (Đại Lão sư), Đảnh hàng Lão sư (Trưởng lão).
Bậc Trung thừa: Bảo ân, Dẫn ân, Chứng ân, Thiên ân.
Bậc Hạ thừa: Tam bộ, Nhị bộ, Nhất bộ, Sám hối (ăn chay trường,
giữ giới đạo), Quy y Hộ đạo (ăn chay kỳ).
Nữ phái chỉ cầu đạo trong phạm vi hai bậc là Hạ thừa và
Trung thừa (phẩm cao nhất là Bảo ân). Nữ phái ở phẩm Thiên ân, Chứng ân, Dẫn ân
được gọi bằng Cô; phẩm Bảo ân được gọi bằng Cô Thái (đồng chơn xuất gia) hoặc
Bà Thái (bán thế xuất gia).
Trong Giáo hội bắt buộc người tu phải ăn chay trường, giữ giới
luật Đạo pháp, trải qua các khóa sơ thừa của bậc Sám hối.
- Về Nghi lễ:
+ Thờ tự: Tại chánh điện, gian giữa thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng
Đế, Diêu Trì Kim Mẫu, Đức Thích Ca Mâu Ni; bên trái thờ Đức Khổng Tử, bên phải
thờ Đức Thái Thượng Lão Quân.
Gian bên trái thờ các vị Tổ sư, Tiên sư.
Gian bên phải thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát, Cửu Huyền Thất Tổ,
Vong linh bá tánh.
Bên dưới chánh điện có bàn thờ Thần Hoàng bổn cảnh, Thổ địa.
Gian giữa đối diện thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế là bàn thờ Hộ
Pháp Long Thần.
+ Hàng ngày tại các Phật Đường cúng tứ thời: 6 giờ (sáng),
11 giờ (trưa), 18 giờ (chiều), 23 giờ (tối); hàng tháng cúng Sóc, Vọng; hàng
năm có các ngày lễ: mùng 9 và mùng 10 tháng giêng âm lịch, rằm tháng giêng âm lịch,
19 tháng 2 âm lịch, 8 tháng 4 âm lịch, 29 tháng 4 âm lịch…
+ Lễ phẩm: dùng đồ chay, hương đăng hoa quả phẩm, cơm nước;
nghiêm cấm dùng rượu, các sản phẩm có nguồn gốc động vật, không dùng ngũ vị như
hành, hẹ, nén, kiệu…
+ Kinh sách tu học: kinh Di Đà, kinh Hồng Danh, kinh Phổ
Môn, kinh Địa Tạng, kinh Thiện Môn Nhật Dụng, Ngọc Hoàng kinh, Địa Mẫu kinh,
Minh Thánh kinh, Thanh Tịnh kinh, Khổng Tử Tâm kinh, Ba La Mật kinh, Cảm ứng
Thiên kinh, Liên Hoa Bửu Sám kinh, kinh Cứu Khổ, kinh Thiên Ngươn, kinh Bắc Đẩu…
Về hệ thống tổ chức:
Hệ thống tổ chức hành chính Giáo hội Phật Đường Nam Tông
Minh Sư đạo gồm:
+ Cấp Trung ương: Hội đồng Trưởng lão và Ban Trị sự Trung
ương Giáo hội.
+ Cấp địa phương: Ban Trị sự (hoặc Ban Nghi lễ) Phật đường.
Hội đồng Trưởng lão là cơ quan tối cao của nền đạo, số lượng
gồm 10 vị Lão sư được Đại hội Đại biểu Minh Sư toàn đạo suy tôn và tại vị suốt
đời, có nhiệm vụ chăm lo về Đạo pháp.
Ban Trị sự Trung ương Giáo hội gồm 15 - 19 hội viên từ phẩm
Thiên ân trở lên, nhiệm kỳ 5 năm; có nhiệm vụ lãnh đạo, thay mặt cho Giáo hội
chịu trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước, trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt
động của Giáo hội.
Ban Trị sự (Ban Nghi lễ) Phật Đường gồm 3 - 5 vị, nhiệm kỳ 5
năm; có nhiệm vụ giúp vị Trụ trì điều hành các hoạt động của Phật Đường.
Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo (gọi tắt là Minh Sư
đạo) đã được công nhận tổ chức giáo hội năm 1920 và hệ thống tổ chức từ Trung
ương tới cơ sở, có hàng vạn chức sắc, tín đồ và gần 100 chùa hoạt động trên 20
tỉnh, thành phố.
Hiện nay, Minh Sư đạo có 53 Phật Đường hoạt động ở 18 tỉnh,
thành phố (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tiền Giang, Hậu Giang, Cần
Thơ, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Ninh Bình, Quảng Nam, Bến Tre,
Kiên Giang, Đà Nẵng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An) với 300 chức sắc, hơn 1.262
chức việc và trên 11.224 tu sĩ, tín đồ. Tổ đình của Minh Sư đạo đặt tại Quang
Nam Phật Đường, số 17 Trần Quang Khải, phường Tân Định, quận 1, thành phố Hồ
Chí Minh. Giáo hội Phật Đường Nam Tông Minh Sư đạo được Nhà nước cấp đăng ký hoạt
động tôn giáo ngày 17 tháng 8 năm 2007 và công nhận hoạt động ngày 01 tháng 10
năm 2008./.
Nguyễn Ngọc Huấn -Chuyên viên Vụ Cao đài
Nguồn: Ban tôn giáo chính phủ.
No comments:
Post a Comment